122

Không sâu-sắc bằng Khái-Hưng, không điêu-luyện bằng Nhất-Linh, không rắn-rỏi bằng Hoàng-Đạo, Thạch-Lam có một tâm-hồn dễ rung-động hơn. Ít tư-tưởng và ít tâm lý, nhà văn ấy lại nhiều tình cảm.

Bởi thế, không phải sau khi đã suy-xét và tìm tòi những nguồn-rễ của sự bất-công vô-lý trong xã-hội, ông mới thù ghét những người trưởng-giả và thương xót những kẻ xấu-số. Mùa đông tới. Những ngọn gió rét mướt bắt đầu thổi. Lòng ông se lại. Thế là ông “nghĩ đến những người nghèo khổ đang lầm than trong cái đói rét cả một đời. Gió heo may sẽ làm cho họ buồn rầu, lo sợ, vì mùa đông sắp tới, mùa đông giá lạnh và lầy-lội phủ trên lưng họ cái màn lặng-lẽ của sương mù” (Lời nói đầu). Hoặc, nằm cuộn kín trong chăn, ấm-áp và sung-sướng, khi ấy ngoài trời mưa phùn ẩm ướt và gió thổi ào ào, ông mới “thương hại cho những nhà nghèo bên hàng xóm, giờ này vợ chồng con cái, đều phải dậy để chống cái nhà lá mà mỗi cơn gió mạnh làm lung lay và để đem các chậu than hứng những chỗ giột nước.”

Không có những điều-kiện phụ thuộc kia, ông không bao giờ nghĩ đến những kẻ sống đau-khổ và cằn-cỗi trong bóng tối. Một quan-niệm bình-dân xuất tự tâm-can như thế thật là thành-thực và cảm-động. Ông Thạch-Lam là một nhà văn nghĩ bằng cảm-giác.

Những cảm-giác ấy, ông tìm ghi lấy, mới-mẻ và y-nguyên. Không để bị ám-ảnh và làm sai-lạc bởi một định-kiến hay một lý-thuyết nào, nên ông có thể trung-thành chép lại những điều trông thấy và nghe thấy. Những bức tranh cũng như những kiểu-mẫu của ông, ông không tô-vẽ và sửa-chữa. Những tình-tiết, tư-tưởng của nhân-vật, ông trình bày một cách thản nhiên và vô tư.

Trương Chính